– Nhắc tới lò sửa máy ảnh Phạm Thê, số 11 Lê Công Kiều, quận 1, TP HCM thì từ giới nhiếp ảnh, báo chí cho đến các tay máy chuyên hay không chuyên cũng đều biết. Vì tiệm sửa máy này có từ trước giải phóng và có thể sửa giỏi đến nỗi được phong là “đệ nhất”. Nhưng trong đời sống số hiện nay, tiệm sửa máy lao đao vì vắng khách…
Thuở vàng son
Ông Phạm Thê, chủ tiệm sửa máy ảnh, giờ tóc đã muối tiêu tâm tình: “Tôi mê chụp hình từ nhỏ. Năm 15 tuổi, tôi theo học ông thầy Cái trên đường Lacai cũ (đường Nguyễn Tri Phương hiện nay) nghề chụp hình và chấm ảnh. Đến năm 1958, tôi chuyển sang nghề sửa máy ảnh và mở tiệm Phạm Thê”. Và chỉ cần đến năm 1960, tiệm ảnh này đã nổi tiếng cả Sài thành sau hai năm hoạt động.
Trong thời gian hành nghề, ông Thê đã kịp truyền lại cho ba người con dòng họ Phạm những ngón nghề sửa máy nổi tiếng. Để rồi giống như cha, các con ông cũng tiếp tục phát huy truyền thống “đệ nhất” sửa máy ảnh.
Trước đó, đại diện hãng máy ảnh nổi tiếng Nhật Bản là Nikon trong một dịp đến lò Phạm Thê nhìn thấy ba anh em ruột nhà họ Phạm đã thốt lên: “Ngay cả các chuyên gia của chúng tôi với phương tiện hiện đại cũng chỉ dám sửa các loại máy của riêng hãng mình. Thật không ngờ tại đây, với đôi bàn tay lành nghề, không có trang thiết bị tối tân mà các anh sửa được thành công máy của rất nhiều hãng: Canon, Nikon, Pentax…”. Điều đó đã trở thành giai thoại và người dân đổ về sửa máy ảnh ngày càng nhiều, đa phần là “cứu” được bởi những người thợ cha truyền con nối ở tiệm Phạm Thê.Bạn đang xem: Sửa máy ảnh kỹ thuật số tphcm
Người sửa ít dần
Anh Tuấn (Tuấn nhỏ) là con trai út của nhà họ Phạm, giờ cũng đã xấp xỉ 40 tuổi nhớ lại: “Cách đây 20 năm, người đến sửa máy chật ních căn phòng này nhưng bây giờ thì ít lắm”. Quả vậy, khi chúng tôi đến chỉ vài thợ cùng khách. Một khi thị trường máy ảnh bão hòa, hàng chục loại máy ảnh liên tục tung ra thị trường các mẫu mã mới để chiếm thị phần, giá thành không ngừng giảm thì việc đi sửa máy để “cứu” nó như ngày trước sẽ hiếm dần. Chị Nguyễn Hà Tiên, nhà ở phường Phước Bình (quậnThủ Đức) đang mang máy Nikon D500, mua với giá hơn 600 đôla, ra sửa bảo: “Nếu sửa mà giá thành bằng một phần ba hay phân nửa thì mua máy mới là tốt nhất, máy cũ dùng làm… kỷ niệm thôi”. Còn anh Thanh Tùng đi sửa chiếc Canon 530 bị hư IC. Khi bị thợ bảo thay thiết bị mới với giá 600.000đ thì bỏ luôn vì như anh nói: “Giá thành máy mới chỉ cần 3 triệu là có máy 7-8 chấm. Máy cũ của tôi xài đã 3 năm rồi còn gì!”.
Bạn đang xem: Sửa máy ảnh kỹ thuật số tphcm
Chính vì giá thành máy mới rẻ nên người đi sửa ít dần theo thời gian. Theo Anh Tuấn: “Nếu như ngày trước, chưa có máy móc nhiều, nên ai cũng muốn cứu thì nay nhu cầu này không như thế nữa. Tiệm tôi bây giờ chỉ có thay mới linh kiện trong máy theo nhu cầu của khách chứ không phải “cứu” như xưa”. Các lỗi thường gặp như hiện nay như mất nguồn, không chụp được, kẹt ống kính, chụp không có hình… thì đều có linh kiện và khách thích thay hơn là sửa như ngày trước mặc dù khách đến sửa sẽ được bảo trì 2-3 tháng nếu bị hư lại.
Ông Phạm Thê giờ đã lui về “hậu trường”, để các con vừa làm vừa quán xuyến công việc tại tiệm. Hiện tại, cả tiệm có 6 thợ, trong đó phân nửa là anh em nhà họ Phạm vẫn gắn bó với nghề cha mình truyền lại và phát huy nó. Nhưng chỉ biết khách mỗi ngày ít dần.
Anh Tuấn cho biết, trên thị trường máy ảnh kỹ thuật số hai hãng Nikon và Canon vẫn thống trị. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào người sử dụng nó. Nếu hay chụp thì máy hoạt động tốt hơn là người lâu lắm mới chụp một lần.
Âu cũng là thời thị trường, khi người dân có nhiều sự lưa chọn thì các tiệm “đệ nhất” kiểu này không còn sầm uất nữa.
Posted on October 19, 2010January 27, 2015Categories UncategorizedLeave a comment on Lò sửa máy ảnh lớn nhất Sài thành: Lao đao trong “đời sống số”Câu hỏi thường gặp khi mới chơi DSLR
Những người mới chuyển sang chơi máy ảnh số ống kính rời thường băn khoăn về kích cỡ cảm biến, hệ thống ổn định ảnh quang và số, cũng như ống kính.
Dưới đây là những câu hỏi thường gặp nhất về máy ảnh số ống kính rời.
Chỉnh chế độ trên máy ảnh số ống kính rời. Ảnh: Letsgodigital.
1. Kích cỡ cảm biến hay số điểm ảnh – cái nào đáng quan tâm hơn?
Không cái nào cả. Yếu tố quan trọng nhất nằm ở kích cỡ của từng điểm ảnh riêng lẻ.
Một điểm ảnh là một tấm thu sáng – càng to thì càng thu được nhiều ánh sáng. Độ thu sáng lớn hơn giúp bạn chụp ít hạt hơn ở ISO cao, ảnh có chi tiết hơn, chuyển màu tinh tế hơn. Tất nhiên, điểm ảnh to hơn dẫn tới kích cỡ cảm biến phải to hơn để chứa được cùng một số lượng điểm ảnh.
2. Vì vậy đó có phải lý do mà ảnh của DSLR đẹp hơn của máy compact khi cùng số điểm ảnh?
Đó mới chỉ là một lý do. DSLR còn ưu việt do có hệ thống xử lý hình ảnh tốt hơn. Bạn có thể điều chỉnh nhiều thứ, vả lại còn được trợ giúp bởi hàng chục loại ống kính nữa.
Thời gian khởi động cũng nhanh, độ trễ cửa trập ngắn, hệ thống lấy nét nhanh và chính xác hơn. Khung nhìn chuẩn, chụp tốc độ nhanh, đèn khỏe cùng với nhiều phụ kiện. Pin lâu và cầm cũng chắc tay hơn.
3. Giữa hệ thống ổn định hình ảnh quang và kỹ thuật số, cái nào ưu việt hơn?
Ổn định hình ảnh kỹ thuật số về cơ bản chỉ là giả lập. Đơn giản là nó chỉ tăng ISO và tốc độ cửa trập, hoặc đôi khi sử dụng phần mềm để làm sắc nét những phần bị mở của bức ảnh. Trong khi đó ổn định hình ảnh quang là công nghệ ổn định đúng nghĩa với hoặc cảm biến, hoặc thấu kính chuyển động theo chiều rung của thao tác người chụp, nhằm triệt tiêu nhòe hình do thao tác chụp ở tốc độ chậm gây ra.
Chỉnh chế độ trên máy ảnh số ống kính rời. Ảnh: Letsgodigital.
4. Sự khác nhau giữa chế độ Automatic và Program?
Chế độ Automatic (tự động hoàn toàn) bản chất đúng là “ngắm và chụp”. Máy ảnh sẽ tự quyết định toàn bộ các thông số như độ mở, tốc độ cửa trập, ISO, cân bằng trắng, chế độ lấy nét tự động, đèn. Trong khi đó, chế độ Program (lập trình) chỉ tự động phần tốc độ và cửa trập, các thông số còn lại để cho bạn tùy chỉnh, như có thể quyết định để đèn hay không, bù sáng thế nào…
5. Chế độ Program Shift nghĩa là gì?
Thực chất chế độ Program Shift (lập trình hoán chuyển) cho phép người chụp tùy ý thay đổi hoặc độ mở, hoặc tốc độ. Máy ảnh sẽ tự động tính toán mối tương quan giữa hai thông số này sao cho bức ảnh luôn chụp đủ sáng nhất. Ví dụ, nếu ở chế độ Program, máy ảnh tự động chọn chụp một khung hình với thông số tương quan là tốc độ 1/250 giây và độ mở là f/8. Khi chuyển sang chế độ Program Shift (thường ký hiệu Av hoặc A, Tv hoặc S), bạn muốn chụp chân dung, muốn mờ hậu cảnh, thì chuyển độ mở từ f/8 sang f/2,8. Lúc này, máy sẽ tự động tăng tốc độ lên 1/2.000, đảm bảo luôn có cùng một lượng ánh sáng cố định được cảm biến hấp thụ.
6. Tiêu cự “tương đương” nghĩa là gì? Tại sao đôi khi lại gọi một ống 50 mm là ống tương đương 75 mm?
Các loại ống kính cho DSLR. Ảnh: Letsgodigital.
Xem thêm: Mua Bán Nhà Nhỏ Quận Gò Vấp Dưới 2 Tỷ Tháng 09/2021, Nhà Bán Giá Từ 1 Đến 2 Tỷ
7. Tại sao lại gọi ống kính này “nhanh” hơn ống kính kia?
Ống kính nhanh cho phép độ mở lớn để ánh sáng được vào cảm biến nhiều nhất. Do độ mở lớn hơn nên máy ảnh có thể chụp ở tốc độ nhanh hơn. Thông số f trên ống kính sẽ cho bạn biết độ mở lớn nhất mà ống kính hỗ trợ với nguyên tắc số càng bé mở càng rộng. Ví dụ, ống có độ mở f/1,4 là nhanh nhất, f/2,8 là khá nhanh, còn f/5,6 đã bị coi là chậm rồi.
8. Vậy có phải dùng ống kính full-frame trên DSLR cảm biến nhỏ là lợi hơn không?
Không. Mặc dù trên lý thuyết các ống kính full-frame cho hình ảnh viền nét hơn các ống kính dành cho cảm biến nhỏ, do các cảm biến này chỉ bắt phần hình ảnh nét nhất tại trung tâm của ống kính. Trên thực tế, không phải lúc nào cũng vậy.
Không phủ nhận là các ống kính full-frame cũng có lợi thế như khi bạn nâng cấp lên máy ảnh full-frame thì nó vẫn tiếp tục phát huy tác dụng, thậm chí còn hơn. Nhưng đổi lại, với các DSLR cảm biến nhỏ, ống kính full-frame khó có thể đáp ứng yếu tố góc rộng, bởi lẽ với crop-factor tới 1,5, thì ống góc rộng 17 mm đã bị biến thành ống 25 mm trên các máy DSLR cảm biến kích cỡ APS-C.
9. Dải tiêu cự f/3,5 – 5,6 trên ống kính nghĩa là gì?
Đói với các ống zoom rẻ tiền, ống kính có xu hướng càng chậm khi zoom càng xa. Ví dụ, trên ống kit 18 – 55 mm f/3.5–5.6 chẳng hạn, ở tiêu cự 18 mm, độ mở lớn nhất là f/3,5, nhưng ở tiêu cự 55 mm, độ mở lớn nhất đã bị đẩy lên f/5,6 rồi. Còn ở tầm trung bình, như tiêu cự 35 mm, độ mở to nhất cũng chỉ đạt chừng f/4,5.
10. Tại sao lại phải mua ống tele khi mà có thể lắp thêm ống nhân tiêu cự (teleconverter) lên ống kit?
Lắp teleconverter sẽ làm cho ống kính của bạn đã chậm càng thêm chậm. Ví dụ, một ống nhân tiêu cự 2x, đối với ống có dải độ mở f/3,5 – 5,6, khi được lắp thêm sẽ chuyển thành f/7 – 11. Đủ biến bức ảnh trở nên tối đi và nhiều khi còn không đủ để lấy nét. Bên cạnh đó, các ống nhân tiêu cự làm cho ống kit cũng được chế tạo bằng các thấu kính bình thường. Do đó khi muốn chụp xa mà ảnh vẫn có chất lượng, tốt nhất nên đầu tư một ống telezoom rẻ tiền còn hiệu quả hơn.
Một ví dụ về hình ảnh chụp từ máy Canon. Ảnh: Kenrockwell.
11. Đâu là sự khác biệt giữa đo sáng evaluative, centerweighted, and spotmetering?
Các hệ thống đo sáng của máy ảnh đều cố gắng tạo một vùng tông màu trung hòa giữa phần sáng nhất và tối nhất cho bức ảnh được hài hòa.
Hệ thống đo sáng Evaluative (đo sáng toàn ảnh) chia khung hình thành các phần nhỏ, so sánh thông số ánh sáng của các vùng này, rồi sau đó chọn thông số tối ưu cho bức ảnh định chụp. Hệ thống đo sáng Centerweighted (đo sáng trung tâm) cũng đo các thông số toàn ảnh nhưng tập trung hơn vào phần giữa để quyết định thông số. Còn Spot (đo sáng điểm) thì chỉ đo đúng một điểm của bức hình (thường có điện tích khoảng 5% khung hình và thường là ở giữa).
Chế độ đo sáng toàn ảnh thích hợp với hầu hết các tính huống chụp ảnh, còn đo sáng trung tâm phù hợp với chụp ảnh nhóm người, trong khi đo sáng điểm giúp người chụp tự tùy biến nhiều hơn.
12. Tại sao phải dùng đo sáng ngoài khi mà máy ảnh đã có sẵn hệ thống này?
Bởi lẽ các hệ thống đo sáng cầm tay bên ngoài giúp bạn đo được ánh sáng tại chính bản thân đối tượng chụp. Điều này đặc biệt hữu dụng khi đối tượng ở trong các điều kiện quá tối (không phản xạ) hay quá sáng (phản xạ cao), những điều kiện mà hệ thống đo sáng của máy ảnh rất dễ theo xu hướng đẩy ảnh quá tối hay quá sáng.
13. Làm sao để biết đèn flash tới được bao xa?
Để biết đèn flash của máy mình mạnh tới bao xa, bạn chỉ cần nhìn vào số GN (Guide Number) của đèn. Do chỉ số GN bằng khoảng cách tới đối tượng nhân với f, nên muốn biết khoảng cách chỉ cần chia số GN này cho f (các thông số đều tính với ISO 100). Ví dụ, nếu một đèn flash có GN là 80, nó có thể phát xa tới 20 feet (6 mét) với độ mở ống kính f/4 (do 80/4=20). Nếu muốn đèn xa tới 40 feet (12 mét) thì bạn phải mở ống kính xuống f/2.
14. Sự khác nhau giữa chế độ TTL và Auto trên đèn flash?
Tùy chỉnh flash theo TTL nhằm đo xem bao nhiêu lượng ánh sáng đèn flash sẽ phản xạ lại qua ống kính (Through The Lens – TTL). Đây thường là cách đo lượng sáng đèn chính xác nhất, cho phép người chụp chĩa đèn theo bất cứ hướng nào để tạo sáng. Còn chế độ Auto đo lượng sáng phản hồi thông qua cảm biến nằm bên trong đèn flash. Dù không thật chính xác, nhưng thông thường thì cảm biến này cũng hoạt động tốt trong hầu hết các tình huống chụp ảnh. Nó lại có hiệu quả với rất nhiều loại máy ảnh khác nhau, trong khi tính năng TTL trên flash chỉ tương thích với tùy đời máy ảnh (TTL của đèn hãng nào, đời nào chỉ hoạt động trên máy ảnh đời nào của hãng đó. Chẳng hạn series flash Canon EZ cho máy phim và series EX cho máy số).
Nên format thẻ nhớ thường xuyên. Ảnh: Dpreview.
15. Máy ảnh của tôi có hoạt động tốt với các thẻ nhớ đời mới tốc độ cao?
Hầu hết máy mới đều tương thích tốt. Các thẻ nhớ mới ra đời chủ yếu nhằm cải thiện tốc độ ghi hình từ máy ảnh vào thẻ nhớ, nhất là với các ảnh có dùng lượng ngày càng cao như hiện nay. Một tiện ích khác của thẻ nhớ tốc độ cao còn là tốc độ đọc ghi ảnh từ thẻ vào máy tính, giúp bạn có thể chuyển toàn bộ khối lượng ảnh một cách nhanh chóng. Tất nhiên bạn cũng cần phải chọn đầu đọc thẻ hỗ trợ tốc độ cao nữa thì mới đồng bộ.
16. Format thẻ nhớ thuờng xuyên có hại không?
17. Có phải ảnh JPG mất dần chi tiết mỗi lần mở ảnh? Liệu có nên chỉ làm việc sau khi đổi đuôi sang TIFF hay PSD?
18. Tại sao cần phải hiểu chỉnh màn hình?
Tất cả các màn hình đều khác nhau về độ sáng và độ tương phản. Nếu không hiệu chỉnh trước mà cứ thế chỉnh ảnh trên màn hình, thì đến khi rửa ảnh rất có thể bạn sẽ thấy thất vọng, vì ảnh không hề giống với nguồn đã xem, như bị quá tối. Vì thế, trước khi chỉnh, tốt nhất là phải hiệu chỉnh màn hình về các thông số màu đúng nhất, đặc biệt, nếu đúng được cả theo thống số màu của lab mà bạn sẽ rửa ảnh thì bạn hoàn toàn yên tâm.