Trung Quốc thể hiện rõ sự chủ động trong chuẩn bị chiến tranh và chọn thời điểm khai hỏa. Về chuẩn bị, Bắc Kinh đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này ít nhất một năm trước khi xảy ra thông qua các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao.
Bạn đang xem: Chiến tranh việt
<1> Các hoạt động này càng đẩy mạnh dồn dập trong khoảng 3 tháng từ sau khi có Hiệp ước Việt-Xô tháng 11/1978.Trung Quốc đã nỗ lực tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi cho chiến tranh. Đầu tiên là tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và Nhật. Tháng 5/1978, Trung Quốc thuyết phục lãnh đạo Mỹ từ bỏ ý định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Tháng 8/1978, Trung Quốc ký với Nhật Hiệp ước Hữu nghị và Hòa bình, thuyết phục Nhật Bản không viện trợ cho Việt Nam. Đầu tháng 11 năm 1978, Đặng Tiểu Bình thăm chính thức Thái Lan, Malaysia và Singapore.
Chiến tranh biên giới Việt –Trung 1979 là một cuộc chiến tranh hạn chế về không gian và thời gian mà ẩn đằng sau nó là hai trục (Bắc Kinh –Phnom Penh; Hà Nội – Moskva). Hai nước trực tiếp tham chiến đều phải dàn lực ra hai hướng (dù mức độ có khác nhau), tính đến mối đe dọa từ hai phía. Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng luôn nghe ngóng phản ứng của Liên Xô; Việt Nam chống trả Trung Quốc song vẫn phải tiếp tục đối phó với Khơme Đỏ ở phía Tây Nam. Trung Quốc tính toán rằng phần lớn quân chính quy Liên Xô tập trung ở phía Tây chống lại sự tấn công của Mỹ và phương Tây cũng như làm rào chắn cho khối Đông Âu XHCN. Liên Xô có khoảng 1 triệu quân<6> canh giữ biên giới Xô-Trung khá dài nên không đủ lính để gác từng km. Liên Xô sẽ không đưa ra một cuộc tấn công nếu không chắc thắng và kéo dài. Liên Xô đang ở vào các giai đoạn cuối cùng tế nhị trong các cuộc thường thảo hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân SALT II với Hoa Kỳ, và được phán đoán có ít xác suất muốn gây gián đoạn cho tiến trình đó bằng việc phản ứng một cách mạnh mẽ chống lại Trung Quốc.<7> Đặng Tiểu Bình trong một cuộc họp bí mật đánh giá: “Chúng ta nhận thức được họ không muốn có bất kỳ một chiến dịch quy mô lớn nào nhưng nếu có chúng ta sẽ đương đầu, chúng ta đã có sự chuẩn bị thỏa đáng”.<8> Trung Quốc tự tin trong các tính toán và hành động vì: Một là, Trung Quốc đã “rào dậu” kỹ càng về ngoại giao với hai đối tác quan trọng là Mỹ, Nhật trên cơ sở liên minh “chống chủ nghĩa bá quyền”. Hai là, chuẩn bị dư luận thế giới về một cuộc “phản kích tự vệ” đuổi quân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Ba là, tiếp tục những cuộc hội đàm thường lệ với Liên Xô về vấn đề biên giới, tỏ rõ cho Liên Xô biết cuộc tấn công Việt Nam là một vấn đề riêng biệt, không ảnh hưởng đến việc cải thiện quan hệ giữa hai nước. Bốn là, nắm bắt nhu cầu của Liên Xô trong “đàm phán hạn chế vũ khí hạt nhân lần thứ hai” với Mỹ – nhu cầu ấy không cho phép Liên Xô mạo hiểm phá vỡ mối quan hệ Mỹ – Xô. Năm là, lực lượng của Liên Xô ở biên giới Xô-Trung không đủ cho một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Nếu muốn mở mặt trận, Liên Xô cần một tháng để điều quân từ Đông Âu sang. Đây là một trong những lý do Trung Quốc hạn chế thời gian chiến sự, muốn đánh nhanh giải quyết nhanh trong vòng 1 tháng.
Thời điểm chiến tranh
Mùa xuân là thời điểm thích hợp khi Trung Quốc tấn công Việt Nam mà không sợ có phản ứng mạnh từ Liên Xô. Nếu từ tháng Tư trở đi, mùa mưa có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Miền Bắc Việt Nam đang vào xuân, thời tiết thuận lợi. Đây cũng là thời điểm sau Tết, nhiều hoạt động vui chơi, dễ mất cảnh giác.
Quân đội Việt Nam đang tập trung ở biên giới Tây Nam. Tại miền Bắc chỉ còn Quân đoàn 1 quân số thiếu làm nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Ngoài một sư đoàn 3 Sao Vàng được điều về sau,<21> biên giới hầu như chỉ còn lính biên phòng và dân quân tự vệ mà Bắc Kinh đánh giá không phải là đối thủ. Việc di chuyển quân từ Tây Nam ra Bắc qua hàng ngàn km đòi hỏi thời gian lớn ngay cả khi Việt Nam được Liên Xô hỗ trợ lập cầu hàng không. Cửa ngõ đến Hà Nội hầu như bỏ ngỏ.
Lực lượng tham chiến
Tổng số quân đội Trung Quốc vào thời điểm 1979 ước khoảng 4,5 triệu<28> trong đó số quân được tập trung ở biên giới Việt-Trung khoảng 250.000. Trung Quốc có 121 sư đoàn bộ binh, 11 sư đoàn thiết giáp, 40 sư đoàn pháo binh, 3 sư đoàn không quân với 5.000 máy bay chiến đấu, 400.000 lính phòng không và 300.000 lính hải quân. Vào đầu cuộc chiến tranh, Trung Quốc huy động quân của hai đại quân khu Quảng Tây và Vân Nam, gồm 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn.<29> Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người.<30> Hải quân phái một lực lượng đặc nhiệm (gồm hai tàu khu trục tên lửa cùng ba đội tàu phóng lôi nhanh có hỏa tiễn) tới quần đảo Hoàng Sa (mà Bắc Kinh xâm chiếm từ tháng 1/1974) để phòng trường hợp Liên Xô can thiệp bằng hải quân. Hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đã huy động hàng chục ngàn quân và dân công để hỗ trợ hoạt động quân sự.<31> Không quân Trung Quốc không tham dự trực tiếp nhưng đã có 8.500 chuyến bay trinh thám và 228 chuyến bay trực thăng vận tải.<32>
Quân đội Nhân dân Việt Nam được đánh giá có khoảng 600.000 bộ binh, 3.000 lính thủy, 300 máy bay và 12.000 lính phòng không, trong đó 19 sư đoàn tập trung ở biên giới Tây Nam, 4 sư đoàn ở biên giới Lào trước cuộc chiến tranh Việt-Trung.<33> Lực lượng còn lại giữ Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ chỉ khoảng 100.000. Niên giám châu Á năm 1980 cho biết lực lượng Việt Nam đóng ở biên giới gồm sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Các lực lượng còn lại gồm bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang – Tuyên Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Con số tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân.<34> Như vậy, quân Trung Quốc tham chiến gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Quân đội Việt Nam được đánh giá là thiện nghệ, có kinh nghiệm chiến đấu, có vũ khí trang bị hiện đại từ kho chiến lợi phẩm thu được từ Mỹ và sự giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên các yếu tố này không phát huy được nhiều tại biên giới Việt-Trung lúc xảy ra chiến sự vì hầu như chỉ có quân địa phương, công an vũ trang trang bị vũ khí nhẹ và dân quân tự vệ bảo vệ biên giới.<35>
Quân đội Trung Quốc là bậc thầy về sử dụng pháo binh. Trong chiến tranh, Trung Quốc đã huy động 18.000 khẩu pháo các loại từ 37, 57, 82 ly cho đến 130, 160, 180 ly, dàn hỏa tiễn. Khoảng 700 máy bay đã được huy động nhưng không tung vào tham chiến vì e ngại lưới lửa phòng không và lực lượng không quân có tiếng của Việt Nam. Từ chiến tranh biên giới Trung – Ấn năm 1962, quân đội Trung Quốc không đánh trận, không có kinh nghiệm chiến trường. Hậu quả 10 năm cách mạng văn hóa cũng làm quân đội Trung Quốc suy yếu, nhiều lính mới nhập ngũ. Bù lại, Trung Quốc có đội quân “sơn cước” tuyển mộ từ những người Hoa ở Việt Nam lâu năm quen biết địa hình, thông thổ, dẫn đường cho quân đội.
Xem thêm: Full Bộ Ảnh Tuyệt Tình Cốc Full 150 Ảnh 2 Cô Cái Sexy Ở Tuyệt Tình Cốc
Địa hình miền núi phía Bắc Việt Nam phức tạp, không thuận lợi cho Trung Quốc triển khai các đơn vị tăng thiết giáp và ngăn cản các thiết bị thông tin lạc hậu. Tuy nhiên, các tướng lĩnh Trung Quốc với chiến thuật biển người truyền thống tin tưởng rằng họ sẽ đè bẹp đối phương trong thời gian ngắn.
So sánh lực lượng, Trung Quốc có thế áp đảo hơn Việt Nam nhiều lần. Đặng Tiểu Bình đặt quyết tâm chỉ có thể thắng—hoặc có thể giải thích là đã thắng trong cuộc chiến—để dẹp tan mọi dư luận chống đối. Tình hình nội bộ Trung Quốc còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ sau khi Đặng quay lại nắm quyền lần thứ hai. Bè lũ bốn tên đã bị loại khỏi quyền lực, nhưng nhóm Hoa Quốc Phong-Uông Ðông Hưng còn đó; đang chờ cơ hội phản công. Đặng Tiểu Bình đã quá lớn tuổi không cho phép làm lại lần thứ ba. Cuộc tấn công Việt Nam là một biện pháp tranh giành quyền lực và thúc đẩy bốn hiện đại hóa quân đội Trung Quốc, củng cố quyền lực cho Đặng.
Phương châm quân sự chủ đạo của quân đội Trung Quốc là tập trung binh lực, đánh đòn phủ đầu, nhanh chóng chia cắt, tiêu diệt sinh lực đối phương. Tướng Hứa Thế Hữu đã triển khai cụ thể phương châm này bằng một chiến thuật gọi là “ngưu đao sát kê” (dùng dao mổ trâu để cắt tiết gà). Hứa Thế Hữu chủ trương: “Ðánh nhanh toàn tuyến, chiến thuật biển người, bao gạo súng trường, người Hoa dẫn đường”.<36> Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch. Lãnh đạo quân đội Trung Quốc còn tuyên bố rất mạnh bạo với quân lính “sáng ăn cơm Đồng Đăng, chiều ăn cơm Hà Nội”.
Các sử gia phương Tây kết luận chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc phản kích tự vệ hạn chế như Trung Quốc tuyên truyền. Chiến dịch năm 1979 đã là một hoạt động quân sự lớn liên quan đến gần mười một đoàn quân Trung Quốc, có quy mô tương đương với cuộc tấn công của quân Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên tháng 11/1950, và vượt quá sâu biên giới Trung Quốc – Việt Nam.<37>
(còn nữa)
Chiến tranh Việt-Trung 1979: Nguyên nhân và mục tiêu
<1> Theo King C. Chen, thời gian chuẩn bị cho một sự “trừng phạt” từ Trung Quốc là hai năm (1977-1979). King C. Chen, China’s War Against Vietnam: A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch; Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”(Tháng 9/1978, BTTM Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã có cuộc họp về vấn đề “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”
<2> Christopher Marsh, Unparalleled Reforms, New York: Lexington, 2005, p. 72
<3>Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47.
Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam, New York, St. Martin’s Press, 1992, p. 287
<4> Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979
<5> Henry Kisinger, On China, p. 488-499.
<6>Robert A. Scalapino “Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union,” in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup, Dover, MA, Auburn House Publishing Company, 1986, p.28.
<7>Harlan W. Jencks, China’s “Punitive” War on Vietnam,: A Military Assessment, Asian Survey
<8>Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 32
<9> Henry Kisinger, On China, p. 496
<10>Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report (xuất bản tại New Delhi, India), Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
<11> Robert Hoppens, The 1979 Sino-Vietnamese War and the transformation of Japan’s relations with China in diplomacy and discourse, Department of History and Philosophy, University of Texas Pan American Volume 14, Issue 2 (Article 6 in 2014), https://japanesestudies.org.uk/ejcjs/vol14/iss2/hoppens.html
<12>Bruce Burton, Contending explanations of the 1979 Sino – VietnameseWar, International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, p. 699-722.
<13> Heney Kissinger, On China, p. 373, 503-504
<14> Xiaoming Zhang, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, No. 184 (Dec., 2005), pp. 857
<15>Sông Hồng, Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, 1999-2005; Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego – New York – London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, 479 p.
<16> Xiaoming Zhang, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, No. 184 (Dec., 2005), pp. 859.
<17>Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”(Trương Hiếu Minh, Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979) The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005 Air War College Montgomery, Alabama, Mỹ, tr. 851-874; Ross, Robert S. (1988)The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-79; Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996 (tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas, Ngô Bắc dịch http://www.vietnam.ttu.edu/events/1996_Symposium/96papers/elleviet.php
<18> Mongolian Memorandum of conversation with O.B. Rakhmanin, April 12, 1979 Moscow, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/113324.
<19>Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). “Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996 Vietnam Symposium – Vietnam Center and Archive, Texas Tech University.
<20> Theo tình báo Mỹ (đã dẫn ở trên) là 54 sư đoàn quân số thiếu.
<22> Note 030/79/ HC of the Permanent Mission of SRV to the United Nation dated 10 February 1979, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118475, accessed date 18 February 2018
<25> Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, tr. 98
<26> Tài liệu cần kiểm chứng qua Video lời kể của Đại tá Quách Hải Lượng, Nguyên Trưởng phòng tác chiến quân chủng PKKQ cho biết, tháng 2 sau Tết đã có lệnh hạ cấp báo động chiến đấu cấp 2 cho bộ đội nghỉ ngơi, bồi bổ sức khỏe. Xem https://nvphamvietdao5.blogspot.com/2016/12/ai-ta-tinh-bao-quach-hai-luong-truoc.html
Tài liệu cần kiểm chứng qua Video lời kể của Đại tá Quách Hải Lượng, Nguyên Trưởng phòng tác chiến quân chủng PKKQ, https://nvphamvietdao5.blogspot.com/2016/12/dai-ta-tinh-bao-quach-hai-luong-truoc.html
<28>Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 33
<30>“Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc” Tạp chí Cộng sản 5/1979 (Hà Nội: 1979), tr. 25; Trường Chinh, “Nhân Dân Việt Nam kiên quyết đánh bại mọi mưu mô xâm lược của chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc (Hà Nội: 1982), Tạp chí Cộng sản 3/1982, tr. 35
<31> Về vạch kế hoạch và chuẩn bị đánh Việt Nam của quân đội Trung Quốc xin xem Zhang, Xiaoming, Deng Xiaoping’s Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The New Cold War History). The University of North Carolina Press, 2015, p. 67-89
<32> Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, p. 865
<33>Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 33-34.
<36> Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, p. 861
<37>Edward C. O’Dowd,Chinese Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,p. 45-73;Ngô Bắc dịch